Friday, November 12, 2010

Ngày Trở Về



Phần XXI: Ngày Trở Về (1)
(Trong Hồi Ký NNTCC)
Tác Giả: Phạm G. Đại
 
Chúng tôi lục tục xuống xe, lích kích khiêng các ba lô túi xách cá nhân vào bên trong cái cổng có tên "Hàm Tân Z-30D" và được chỉ định tập trung vào một khu vực sâu phía bên trong trại .
Chín mươi người chiếm hẳn một góc sân trong tư thế nghỉ ngơi kẻ đứng người ngồi dưới tàn cây rợp bóng mát.
Trên khuôn mặt những người tù cuối cùng này có một điểm giống nhau là sự bình thản và nhẫn nại. 
Sự bình thản là kinh nghiệm nhiều năm ở tù đã tạo cho họ có được một đức tính biết âm thầm chịu đựng, biết chờ đợi và biết bình tĩnh trước mọi tình huống. 
Chính sự bình tâm trước mọi thử thách gian nguy và thái độ can trường chịu đựng một cách bền bỉ mọi hình phạt tàn khốc của kẻ thù phủ lên người họ, đã dần dần biến đổi môi trường sống của người tù thành thuận lợi hơn.
Hoặc giả vì cái nghiệp lực to lớn phủ chụp xuống toàn dân miền Nam khi nước đã mất vừa lui đi? Hoặc kẻ thù sau bao nhiêu năm trả thù đã hả hê và bây giờ họ chợt nhận thấy rằng mình đã xuống tay quá mạnh trên lưng kẻ thất trận cùng một mầu da nên dừng bớt lại?
Cộng thêm vào đó là lòng nhân đạo của người tù đã lấy ân báo oán, "lấy trí nhân mà thay cường bạo" khi cứu giúp thuốc men cho các khu gia binh và dân chúng quanh vùng, khi chia sẻ điếu thuốc, ấm trà, ly cà phê với các cán bộ, cán binh của trại giam đã làm cho họ phải suy nghĩ về tình người?
Tất cả những sự việc bề ngoài tuy trông rất bình thường đó lại là những yếu tố quan trọng cảm hóa kẻ thù, lấy được lòng dân, và xoay chiều cơn sóng dữ đã bao lần muốn nuốt sống mạng người tù; để đạt được điều ấy, hàng ngàn tù nhân đã ngã gục và nằm sâu trong lòng đất Mẹ.
Sau một thời gian dài suốt chín năm vừa qua, được gia đình đến thăm nom và tiếp tế đủ thứ từ ăn uống đến thuốc men, quần áo vật dụng, thì chúng tôi đã có một "tài sản" khá nhiều, khá bề bộn, dù là đã bỏ lại tại trại cũ Nam Hà nhiều thứ lỉnh kỉnh, nên chưa đến nỗi như đồ đạc trong truyện "Hoàng Trừu" ngày xưa
Đó là chưa kể đến những thứ mà các bạn về trước đã để lại như cây đàn ghi ta, bình ấm pha trà, các sách truyện quý kể cả các cuốn kinh về tôn giáo mà chúng tôi buộc phải mang theo vào Nam vì đó là những kỷ niệm của người đã rời trại giao cho người ở lại. 
Thêm vào đó, những người tù trước khi ra khỏi cổng trại tù vẫn còn phải chịu một lần kiểm soát gắt gao nữa và các sách báo kinh điển như vậy sẽ bị tịch thu ngay. Bởi thế kinh nghiệm của những người được về trước để lại cho người sau là càng gọn nhẹ càng tốt để tránh bị đám trực trại làm khó dễ hay hạnh họe trong lúc kiểm tra.
Trong những năm tháng tù đầy, có nhiều sự việc bất ngờ xẩy ra làm cho đời sống tù nhân thêm vất vả khốn đốn mà chuyển trại là một. Chuyển trại luôn là điều đáng e ngại nhất vì ngoài sự cực nhọc lao đao của thân xác là sự bất định của một tương lai không biết sẽ đi về đâu. Dầu sao đi nữa thì việc chuyển trại lần này coi như tạm xong.
Đây không phải lần đầu tiên chúng tôi chuyển trại và có thể cũng chưa chắc đã là lần cuối, cho nên cách tốt nhất là chấp nhận hiện tại rồi từ từ tính sau, bởi vậy chúng tôi mỗi người sẵn sàng bên cạnh hành trang của mình chờ đợi thủ tục nhập trại.
Thủ tục này như mọi lần thì bao gồm điểm danh từng người để bàn giao quân số cho trại mới, nhắc nhở về tuân thủ nội quy và kế nữa là mỗi người tù tự mở ba lô của mình ra cho trực trại khám xét từng vật dụng một trong đó; thứ nào được cho qua thì mới được đem vào, còn lại là tịch thu hết. 
Điều lạ lùng là lần đầu tiên thủ tục khám xét để nhập trại tại Hàm Tân đã được thông qua chứ họ không lục tung lên tất cả mọi thứ trong tư trang mỗi người như những lần nhập trại tại miền Bắc.
Có thể đây là một dấu hiệu tốt hay chăng? Cái gì thì cũng phải đợi một thời gian nữa xem sao vì họ đã lường gạt người tù quá nhiều lần rồi nên bây giờ chúng tôi thẩy đều thận trọng.
Trong khi chúng tôi vẫn đang đứng bên cạnh tư trang của mình thì cánh cổng trại chợt được đẩy rộng ra hơn vì có mấy tay cán bộ, cán binh đem các xâu chìa khóa vào và lần lượt mở còng hết cho các tù nhân.
Thái độ của họ tỏ ra thân thiện mà tôi tin rằng đó là do cấp trên đã ra lệnh cho họ đối xử như vậy, chứ không đầy hận thù như tại trại giam Long Thành mười hai năm trước khi còng tay chúng tôi để chuyển đến trại Thủ Đức trên đường ra Bắc lưu đầy .
Tôi lấy bàn tay trái xoa bóp cổ cánh tay phải một chút vì có chỗ hơi bị sưng lên vì cái còng số tám.
Ba ngày trời rồi cổ tay phải của tôi mới được thong dong rời khỏi cổ tay trái của anh Hai Hầu.
Ba ngày rồi trên tầu hỏa hay khi xuống xe lửa về trại Hàm Tân, anh Hai Hầu đi đâu thì tôi phải đi theo, ngược lại cũng vậy và cả tôi lẫn anh Hai Hầu đều không than phiền gì dù là cái còng có hơi nhỏ một chút.
Sau đó thì có vài tay có lẽ là cấp chỉ huy mà họ gọi là "Ban" đến để nói chuyện với nội dung tóm tắt là anh em chúng tôi được chuyển vào Nam để "tiếp tục cải tạo chờ ngày về đoàn tụ gia đình". 
"Ban" đề cập một số những giáo điều mà chúng tôi chẳng ai buồn nghe vì sau ba ngày di chuyển trên xe lửa thật mệt mỏi, ai cũng chỉ muốn cho xong mọi thủ tục để tìm chỗ nghỉ ngơi mà thôi.
Mười lăm phút nói chuyện để chào đón chín mươi người từ miền Bắc vào Nam, và không thấy ai có ý kiến gì nên mấy tay cán bộ này bảo nhóm trật tự hướng dẫn chúng tôi về buồng giam trong một khu vực riêng, biệt lập nằm bên trái sân trại.
Bấy giờ là buổi chiều, từ lúc mới vào trại, tôi vẫn nhìn ra phía ngoài cổng, nắng đang nhuộm vàng trên những ngọn lá Buông từ xa rồi tắt xuống dần thân cây và hắt những sợi vàng yếu ớt của một ngày sắp hết thành những vệt dài loang vào trong sân.
Lúc đó tuy là mùa Hạ nhưng khi ánh nắng dịu đi thì dưới đất không còn bốc lên cái nóng hừng hực của ngày Hè nữa,  mà hơi mát từ trong không khí tỏa xuống thật dễ chịu. Sau này tôi mới biết nơi này mát một phần là nhờ trại nằm gần bên một nhánh sông được tách ra thành các dòng suối nhỏ nước chảy róc rách ngày đêm xuyên qua khu rừng và chạy vòng quanh trại.
Trước kia, nơi đây là mật khu rừng Lá của VC mà họ vẫn thường chận các xe đò liên tỉnh để hăm dọa hành khách, bắt hành khách vào trong khu rừng này để tuyên truyền về "giải phóng" về "cách mạng" mất cả nửa ngày mới thả cho ra về. Nếu là quân nhân hay công chức thì bị bắt dẫn đi luôn.
Tôi có hai người cháu trai lúc còn bé đi theo chuyến xe đò liên tỉnh này, hai cháu cũng bị bắt vô đây nghe thuyết giảng mấy tiếng đồng hồ rồi mới được thả cho về lại Sàigòn vì các cháu chỉ là học sinh.
Lúc về tới nhà mấy ngày sau mà hai cháu vẫn còn hãi sợ . Hình ảnh những súng AK chĩa về phía hành khách đang ngồi bệt xuống đất trong rừng, và những chiếc khăn rằn quấn quanh cổ với những bộ mặt dữ tợn. Các cháu nói không quên được dù sau này đã trưởng thành.
Sau khi chiếm miền Nam thì cái mật khu này được biến thành trại tập trung "cải tạo" để giam giữ cả tù hình sự lẫn tù chính trị chế độ cũ. Thời gian những năm trước, trại này cũng nổi tiếng là khắc nghiệt, ngược đãi tù nhân với bàn tay sắt.
Số lượng tù nhân chết vì kiệt sức, vì vượt trại và bị bệnh tật không phải là ít.
Dòng đời vẫn trôi nhanh và tôi cũng không tưởng tượng ra được một ngày nào đó như hôm nay tôi lại có mặt trong khu rừng Lá này, không phải để nghe như các hành khách xe đò ngày xưa những tuyên truyền của VC - giống như những giáo điều bài bản rập khuôn và rỗng tuyếch mà tôi đã phải nghe mười mấy năm nay - mà chính tôi và những người tù đồng cảnh ngộ đang sống ngay bên trong trại giam của họ dựng lên tại nơi này.
Dầu sao thì tôi cũng đã vào đến trong Nam và điều thực tế là gần gia đình hơn và khí hậu miền Nam cũng ôn hòa hai mùa mưa nắng sẽ tốt và thích hợp cho sức khỏe chúng tôi nhiều hơn.
Một điều đáng mừng là gia đình cũng bớt vất vả ngược xuôi từ Nam ra Bắc trong những chuyến thăm nuôi đã như là huyền thoại vào tận rừng sâu núi thẳm để tiếp tế cho chúng tôi.
Một điểm nữa, không hiểu sao khi vào đến đây thì trong tôi niềm hy vọng lại chợt loé lên hình ảnh một ngày trở về sẽ không còn xa nữa- nghĩa là tôi sẽ có một ngày nào đó được trở lại thành phố Sàigòn, cái thành phố mà tôi đã phải u buồn trong câm nín, đau buồn trong tang tóc mà lặng lẽ bỏ nó ra đi cái ngày mà miền Nam vừa mất vào tay kẻ thù phương Bắc.
Miền Nam, hai tiếng đó như một cái gì thật là gần gũi và yêu thương mà sau mười hai năm lưu đầy xa vắng, nay tôi mới có dịp quay về để hít thở lại bầu không khí ấm áp này.
Tôi đang miên man suy nghĩ thì đã bước đến cửa buồng và quay về thực tại vì các tiếng động ồn ào, tiếng nói lao xao của các bạn. Chúng tôi thẩy các ba lô vật dụng cá nhân lên chỗ nằm rồi đi tìm nước tắm một cái đã, mọi việc khác tính sau. 
Buồng giam này cũng giống như hàng mấy chục cái buồng giam mà tôi đã trải qua, mỗi buồng cũng chứa đến sáu chục người. Tụi tôi ở làm ba buồng, hai buồng lớn và một căn nhỏ trên mấy bực tam cấp là dành cho các ông tướng.
Đây là lần đầu tiên từ mười ba năm qua mà chúng tôi, các dân sự hay cấp úy cấp tá, được ở chung cùng một khu, cùng chung một sân, không có bờ tường hay hàng rào kẽm gai ngăn cách với các ông tướng.
Tất cả tụi tôi, những người tù cuối cùng đều tập trung trong khu này trừ một số trong các anh đã ở Hàm Tân trước thì được phái ra ngoài như là tự giác để canh giữ các lán trại hay chăn nuôi gia súc và heo bò tăng gia cho trại.
Phía trước mặt khu vực chúng tôi ở là bờ tường, còn phía bên hông trái là hàng rào dây kẽm gai, chừa ra một cái cổng ra vào, thông ra sân lớn; và phía bên kia sân chạy dọc vào sâu bên trong là các khu dành cho tù hình sự.
Đặc điểm của trại này là có hai khu giam giữ một dành cho tù hình sự nữ và một cho nam.
Trong ba căn buồng giam dành cho chúng tôi, hai căn lớn là sàn xi măng bên dưới và có một tầng trên là sạp gỗ.
Buồng giam ở đây tương đối thoáng mát hơn các buồng giam ngoài Bắc vì có nhiều cửa sổ và trông sạch sẽ hơn nhiều.
Chỉ có căn dành cho các ông tướng thì ngăn ra làm mấy phòng nhỏ và mỗi anh đều có một chiếc giường cá nhân thoải mái để nằm chứ không phải nằm trên sàn.
Nơi dành cho các anh ở là một căn nhà nhỏ trông rất tươm tất, không có hình dáng một buồng giam như chúng tôi đang ở dưới này.
Mấy ông tướng vào những năm sau cùng thì rất là thân, có dịp liên lạc nói chuyện thường xuyên với chúng tôi, và tâm sự nhiều với nhau chứ không còn ngăn cách và biệt lập như những năm đầu khi mới ra Bắc.
Chúng tôi thường gọi mấy ông tướng bằng "anh" chứ không có còn gọi theo cấp bậc chức vụ cũ nữa.
Trong các ông tướng thì chúng tôi quen biết hết vì gập nhau hàng ngày, và thường có dịp thì cùng tham gia văn nghệ chung với anh Lê Minh Đảo, anh Lê Văn Thân.
Tình thân mỗi người mỗi khác nhau nhưng tôi lại thân và kính mến nhiều hơn với các anh Mạch Văn Trường, Trần Bá Di, và anh Tất, mà tôi coi như những người anh lớn và học hỏi được nhiều về cách sống của các anh.
Anh Đảo thì rất văn nghệ, mau mắn và có giọng cười thật là phóng khoáng dễ mến.
Anh vừa đàn vừa hát nhiều bản do anh sáng tác nhưng hay nhất và cảm động nhất vẫn là bài "Mẹ" mà anh làm ra để tặng người Mẹ hiền.
Anh Di thì dáng người cao lớn như anh Trường nhưng gầy hơn, miệng lúc nào cũng nở nụ cười thật tươi khi gập hay trò truyện với anh em chúng tôi. Điểm đặc biệt ở anh Di mà tôi nhận thấy nổi bật là anh lúc nào cũng giữ được tinh thần lạc quan và tinh thần chiến hữu bền chặt với anh em cấp dưới trong tù.
Anh Giai thì dáng hơi gù gù giống như vai hùm của võ tướng thời xưa và nhiều lúc tôi thấy anh hay cười mỉm chi như vừa tìm ra được một điều gì đắc ý vậy khi đang nói chuyện với các đàn em.
Anh Thân thì học được thuật châm cứu của ông thầy người Tầu khi còn ở trại Hà Tây ngoài Bắc.
Ông người Tầu này bị bắt khi đi hái thuốc tại biên giới Việt-Trung và bị khép vào tội gián điệp, và là một ông thầy đã từng cứu giúp nhiều anh em chúng tôi bằng phương pháp châm cứu thật độc đáo. 
Những người dân sống tại vùng biên giới Việt-Trung, nếu thiếu thận trọng như ông thầy Tầu này khi mải mê đi hái lá rừng làm thuốc thì rất dễ bị lạc qua địa phận bên kia, và sẽ bị bắt ngay về tội xâm nhập lãnh thổ, dò la hay gián điệp.
Ông là một người có tài châm cứu như thần mà tôi khâm phục vì chính mắt tôi đã mục kích những lần ông chữa đủ thứ bệnh cho các anh em tù nhân chính trị với hai cây kim bạc dài đến gần hai tấc đâm lút vào bụng hay vào sống lưng.
Ông luôn đem theo một họa đồ mà tôi rất thích ngắm nghía nhưng chẳng hiểu gì cả vì đầy những huyệt đạo trên cơ thể con người để chỉ dẫn thêm cho anh Thân.
Ngoài tài về châm cứu ra, anh Thân còn có biệt tài về thổi ống sáo.
Buổi chiều khi đi lao động về, sau bữa cơm đạm bạc, tôi thường ngồi trên chiếc ghế đá trong sân trước buồng để hưởng một chút thanh tịnh của một ngày sắp tàn. 
Những khoảng thời gian đó là lúc anh Thân bắt đầu lấy ống sáo ra và tiếng sáo của anh bay từ căn nhà trên bực tam cấp đó vi vu thoảng trong gió chiều xuống buồng chúng tôi làm tôi thấy tâm hồn mình lâng lâng một cảm giác mênh mang khó tả trong ánh chiều tà.
Tiếng sáo ấy chắc không thể đem ra so sánh với tiếng sáo của Trương Lương ngày xưa vì hai hoàn cảnh khác nhau nhưng để lại trong tôi những cảm xúc buồn vui lẫn lộn.
Lúc anh thổi, đầu anh hơi cúi xuống như đang để hết những tâm sự của mình vào trong tiếng sáo nên khi nghe dù là tôi nhìn thấy anh hay không nhìn thấy anh chăng nữa, trước mắt tôi vẫn hiện rõ một khuôn mặt hiền hậu xương xương nuớc da sạm nắng với nụ cười mím luôn trên môi và đôi mắt hiền lành nhưng luôn vương vấn một nỗi niềm u uẩn khó tả.
Có lúc tôi nghe tiếng sáo mà thấy lòng mình vui theo, nhưng nhiều khi tiếng sáo ấy thật buồn da diết như lời trần tình của một vị tướng, một chiến sĩ đã không làm tròn được bổn phận giữ nước của mình và đã sa vào trong tay giặc.
Đôi khi tôi chạy lên phòng để nói với anh rằng anh thổi sáo thật tuyệt vời dù là anh học chưa bao lâu, những lúc đó anh chỉ cười, nụ cười hiền hậu cám ơn, nụ cười mà không bao giờ xóa nhòa trong trí nhớ của tôi.
Có khi tôi lại không có can đảm nghe thêm nữa và bỏ vào trong buồng lên chỗ nằm tìm cuốn sách để đọc bởi vì tiếng sáo ấy lướt đi như làn gió nhẹ bay bay trong không trung của mấy buồng giam chúng tôi như đã khơi dậy trong tôi niềm đau sâu kín trong lòng về thân phận tù đầy của mình, về sự tan vỡ của gia đình, về niềm nhớ không nguôi thành phố mang tên Sàigòn, về tương lai có nhiều hứa hẹn hơn nhưng vẫn còn xa vời.
Anh Trường thì thân với tôi như anh em khi còn ngoài Bắc vì chúng tôi đều chung một thầy học đạo. Thầy Tâm đã nhận anh Trường và tôi làm đệ tử. Thỉnh thoảng tôi lại có dịp ăn bữa cơm chay với thầy,  anh Trường và cả ông Xoàn nữa do thầy nấu nướng và chế biến; trong khi ăn thầy thường kể những câu chuyện về đạo Phật trong đời sống dân gian ngày trước rất là hay và thật lạ lùng. 
Tôi cũng có một kỷ niệm đáng nhớ với anh Trường khi ngoài Bắc họ loan báo đổi tiền. Anh từ bên buồng giam của mấy ông tướng đưa cho tôi hai trăm đồng qua bờ tường để nhờ tôi đổi dùm. Lúc đó dù là ở Nam Hà cũng đã thoải mái hơn, nhưng các anh vẫn bị hạn chế nhiều trong bốn bức tường ít tiếp xúc với bên ngoài bằng tụi tôi, cho nên tiền bên các anh đều phải tuồn qua bên chúng tôi để tìm cách đổi cho kịp.
Chúng tôi trong buồng bèn gom tiền lại nhờ anh H. là tự giác đi ra ngoài trại qua đám cán bộ nhờ đổi dùm - nhưng không may hôm đó họ khám tất cả mọi người ra vào trại kể cả tự giác và trật tự nên anh H. bị tịch thu hết số tiền mang ra.
Tối hôm đó tôi nằm mơ thấy mình mặc một bộ quần áo rất sạch sẽ, áo sơ mi và quần tây mầu trắng thì đột nhiên có một con gà từ buồng bên cạnh chạy qua và nhẩy vào người tôi rồi loang đầy máu đỏ lên chiếc quần trắng đó. Tôi vội hất con gà ra nhìn cái quần bị vấy máu thì giật mình tỉnh dậy. Có thể là một điềm xấu.
Sáng dậy, tôi bèn đem giấc mơ ra hỏi thầy Tâm thì thầy không nói gì chỉ bảo tôi ráng niệm Phật và thầy cũng sẽ cầu nguyện cho.
Chiều hôm đó trực trại kêu mười mấy người trong đó có tôi qua khu bên Văn Hóa "làm việc". Chúng tôi được biết là phải viết kiểm điểm vì lưu trữ tiền "ngân" vi phạm nội quy của trại. Lúc đó tôi mới hiểu là giấc mơ đã báo cho điềm không hay. Tôi viết và nhận số tiền hai trăm đồng là của tôi vì không muốn họ làm khó dễ anh Trường vì sao anh cũng là cấp tướng còn tôi dầu sao chỉ là phó thường dân.
Họ thu hết các bài kiểm điểm đem ra khỏi trại, tịch thu hết tất cả số tiền lần đó nhưng rất may là sau đó vụ này từ từ êm đi. Tiền đi thay cho các tai ương khác như ông bà thường nói chăng.
Tôi nhắn với anh Trường là số tiền đã bị tịch thu rồi và tôi nhận số tiền hai trăm ấy là của tôi và xin lỗi anh đã không làm tròn lời hứa nhưng anh rất vui vẻ và không trách cứ gì tôi cả.
Anh Trường cũng như anh Hai Hầu đều lớn tuổi hơn tôi nhiều và coi tôi như người em trai. Anh Trường được thả ra sau hơn mười sáu năm tù, khi anh ra về tôi có ra gập anh nói chuyện chốc lát và anh siết chặt tay tôi cũng vẫn với nụ cười tươi và tiếng nói rổn rảng. Anh vẫy tay chào mọi người còn lại và nói mong sẽ sớm gập lại hết các anh em ở Sàigòn một ngày không xa.
Tình chiến hữu ngày xưa quyện vào tình những người tù đồng cảnh ngộ hôm nay nhất là cùng ở tù với nhau trong giai đoạn cuối này đã trở thành một thứ tình cảm gắn bó không khác gì anh em một nhà.
Trong những lần trại có đợt thả như vậy, và mỗi khi nhìn thấy các người tù được ra về thì tôi lại mừng cho các bạn mình . Tôi mường tượng ra cảnh họ tối nay sẽ đoàn tụ quây quần bên bữa cơm gia đình với nụ cười trong nước mắt, nghĩ về mình còn ở lại thì tôi không khỏi buồn và thấy thật nhiều trống vắng trong tâm hồn vì mất một số bạn hữu không biết bao giờ gập lại? Buồng giam càng ngày lại càng buồn tẻ hơn vì người càng lúc càng thưa dần.
Dầu sao mười mấy năm trong tù cũng tôi luyện cho tôi quen dần đi với những đợt thả không có tên mình.
Lúc đầu khi họ kêu ra sân ngồi tập hợp lại để nghe đọc tên, tôi rất hăng hái đi ra với hy vọng có tên mình trong danh sách được thả, nhưng bao lần tên tôi như bị lãng quên, nên riết rồi tôi cũng chán và mỗi lần như vậy lại cáo ốm nằm trong buồng vì biết chẳng bao giờ có tên mình.
Vả lại nghe thấy tên các bạn thân thì bên cạnh niềm vui cho bạn là nỗi chán chường của người còn ở lại.
Nỗi chán chường này bắt nguồn từ tình bạn như thường ăn cơm chung, cùng chia sẻ những nỗi mệt nhọc trong các giờ lao động ngoài nắng mưa hay những buổi chiều dạo bước trên sân tâm sự với nhau, thì đột nhiên họ có tên ra về để lại tôi ngồi ăn một mình, không ai tâm sự, là một trống vắng một nỗi buồn da diết trong tâm hồn khó bù lấp ngay được.
Thời gian vẫn lặng lẽ trôi qua, thấm thoát mà chúng tôi đã vào Nam được một năm. Khi vào đây tôi mới biết là trong Nam cũng còn giam giữ chưa thả hết tù chính trị chế độ cũ.
Chín mươi người chúng tôi từ trại Ba Sao Nam Hà là những người tù cuối cùng trên toàn đất Bắc chuyển trại vào Nam tháng Năm năm một chín tám tám.
Trong Nam lúc ấy, trại Hàm Tân còn khoảng hơn sáu mươi người nữa là những người tù cuối cùng còn lại ở miền Nam hợp lại với nhau thành khoảng một trăm năm mươi tư người tù chính trị là những người tù cuối cùng trên toàn quốc đang bước qua năm thứ mười bốn.
Một trăm năm mươi tư người tù đó là số sau cùng còn lại của hàng triệu người đã bước chân vô các trại giam tập trung kể từ sau khi miền Nam rơi vào tay Cộng Sản phương Bắc.
Khi toán tù từ Bắc nhập vào toán trong Nam, có những người bạn cùng đơn vị ngày xưa lưu lạc giang hồ bao nhiêu năm trời và qua bao nhiêu là trại giam từ Nam ra Bắc rồi từ Bắc vào Nam, bỗng chốc hội ngộ nhau tại Hàm Tân Z-30D mới biết là bạn mình vẫn còn ở lại đây, giống như bài hát:
-"Anh ở đây bạn bè anh cũng ở đây, áo rách xác xơ thân gầy cùng nhau chung kiếp lưu đầy...chiều chiều ra trông đàn én kiếm mồi thấp thoáng bay qua. Toa liền toa tầu đi trong bóng hoàng hôn, tiếp nối những dư âm buồn thành thơ ray rứt tâm hồn..."
Chúng tôi gập lại nhau mừng rỡ một phần vì những giai đoạn cam go nhất trong cuộc đời tù tội hầu như đã qua và trong cái không gian dù còn nhiều tù túng và hạn chế này nhưng niềm hy vọng đã lóe sáng lên cho một ngày trở về.
Tuy nhiên, không ai biết rằng và chúng tôi cũng không ai ngờ rằng phải chờ đến bốn năm sau nữa thì họ mới thả hết hơn một trăm năm mươi người tù này làm nhiều đợt nhỏ lớn khác nhau.
Mặt khác ở bên ngoài xã hội, năm một chín bẩy chín thì Mẹ và hai em út của tôi được ra đi đoàn tụ qua Mỹ theo chương trình ODP mà anh thứ Ba tôi đã bảo lãnh từ 11 năm trước. Chắc chỉ có trong các nước Cộng Sản thì việc xin ra đi nước ngoài cho người dân mới bị làm khó dễ và thủ tục lâu la đến 11 năm như vậy. Năm sau, một chín chín mươi thì vợ chồng Tuyết em gái kế tôi là cô Năm ra đi cũng theo chương trình này qua California.
Năm một chín chín mốt thì đến lượt gia đình Khánh, em gái tôi là cô Sáu rời khỏi VN qua Mỹ là chuyến chót.
Kể cả vợ chồng Thu, em gái tôi cô Bẩy đi vượt biên mười mấy năm trước nữa thì gia đình anh thứ Hai tôi là độc nhất còn ở lại Sàigòn.
Những người trụ cột cho việc thăm nuôi tôi trong tù bao nhiêu năm qua đã lần lượt rời quê hương qua Thái Lan trên đường qua Mỹ định cư. Lúc đó chỉ còn hai con tôi đảm nhận vai trò đi thăm nuôi tôi trên những chuyến xe đò của ông Tô mà thôi.
Cùng lúc đó thì bên ngoài kể từ đầu của thập niên chín mươi niềm hy vọng, nỗi mong đợi bấy lâu là chương trình H.O đã bùng lên thành sự thật một cách rạng rỡ  (là chương trình Nhân Đạo: Humanitarina Operation của chính phủ Hoa Kỳ dành cho các gia đình có thân nhân đã ở trong trại giam tập trung từ ba năm trở lên được đi định cư tại Hoa Kỳ.)
Một mặt thì trại vẫn thả nhỏ giọt những người tù, một mặt thì bên ngoài các chương trình H.O 1, H.O 2, H.O 3... vẫn tiến hành đều đặn, cứ vài tháng lại có một đợt H.O ra đi.
Trong khi đó thì chúng tôi những người tù cuối cùng vẫn còn bị giam giữ trong bốn bức tường của Z-30D Hàm Tân, tỉnh Thuận Hải.
Tâm trạng vui buồn lẫn lộn của những người còn lại ít ỏi đó thật là khó mà diễn tả được. Thỉnh thoảng, chúng tôi lại nhận được tin từ thăm nuôi vào cho biết những gia đình H.O nào đã lên máy bay qua Thái Lan, gia đình nào đang chờ đợi chuyến bay.
Một trong những niềm vui và an ủi là một số các bạn tù được ra về những năm trước nghe chúng tôi đã về Nam nên vào thăm mua quà và cả két bia nữa, nhân dịp cũng để từ giã chúng tôi luôn vì các anh đã có tên trong danh sách H.O sắp lên máy bay qua Mỹ định cư cùng gia đình.
Khi ra khu thăm nuôi gập lại nhau thì không nén được niềm xúc động.
Cuộc đời nhiều lúc cũng khó mà lý giải được vì các người bạn đứng đây lúc trước đều là tù nhân như nhau nhưng bây giờ chúng tôi còn trong trại giam mà các bạn đó lại sắp bước vào cuộc đời tươi sáng trên phần đất Tự Do.
Chỉ có thể tin rằng con người ta mỗi người đều có số mạng khác nhau, hay khi mà nghiệp lực đã hết thì thong dong ra về, người nghiệp lực chưa hết thì còn ở lại mà thôi.
Trong hơn ba năm kể từ một chín tám tám, trại chỉ thả số lẻ là năm mươi tư người làm nhiều lần khác nhau, trong đó có nhà văn quân đội PNN ra trại năm chín mươi, cho nên đến đầu năm một chín chín hai thì tổng số còn lại là một trăm người.
Số một trăm người này lần lượt ra khỏi trại làm ba đợt: tháng Giêng, tháng Hai và cuối tháng Tư đầu tháng Năm.
Đợt thứ nhất gồm 42 người trong đó có các anh Lãm, Tỷ, Diễm, Chương "Tây Ninh", Tống, Điền, Nghi, v.v.
Nhắc đến anh Tỷ thuộc Phủ Đặc Ủy thì mới thấy con người ta sống chết quả là có số mạng, cái chết nhiều khi đến thật dễ dàng nhưng có lúc gập bao tai nạn bệnh tật mà vẫn thoát lưỡi hái của Thần Chết thật kỳ diệu.
Khi còn ngoài Bắc, tôi nằm cùng sàn trên với anh Tỷ, một buổi sáng thức dậy, anh đứng lên để tháo cái dây cột mùng ra khỏi sợi dây kẽm thì có lẽ chóng mặt hay sao đó anh mất thăng bằng nên té từ trên độ cao hơn hai thước, đầu cắm xuống đất.
Bên dưới là các thùng gánh nước bằng sắt, đầu anh đập vào đúng một thùng sắt tây đầy nước, nhưng rất may là tối hôm trước không hiểu anh nào đã đậy thùng nước với cái chậu thau nhôm chia cơm; nhờ có chậu thau đó mà anh đã không bị bể đầu. Cái chậu thau đó như một cái đệm đã cứu mạng anh.
Mọi người đều hỏi anh cần đi bệnh xá không thì anh nói là không sao chỉ choáng váng thôi và một hai ngày sau thì thấy anh bình thường trở lại không có biến chứng gì nguy hiểm.
Khi mới vào Hàm Tân khoảng hai năm thì một buổi tối anh Tỷ đau lăn lộn tại chỗ nằm, chúng tôi đứng chung quanh cũng bối rối chưa biết làm sao và không hiểu nguyên nhân gì mà anh đau dữ dội như vậy, may có anh Nhơn nhanh trí chạy qua bên bệnh xá mời một bác sĩ (anh là BS cũ tại bệnh viện Sàigòn ngày trước và bị bắt sau này vì vụ án "âm mưu lật đổ chính quyền"). Qua chẩn đoán vị BS này nghi là sưng ruột dư nên kêu cấp cứu.
Vì thiếu phương tiện hay người tù không được ưu tiên hay sao nên anh Tỷ chỉ được một tay cán bộ chở bằng xe gắn máy từ đó trên con đường sỏi rất là xóc cả cây số mới ra tới ngoài lộ trên đường đến bệnh viện.
Dù ngồi đằng sau xe gắn máy xóc cả tiếng đồng hồ như vậy nhưng rất may là vẫn còn đến bệnh viện kịp, vì nếu để lâu cái ruột dư mà bị bể ra thì theo anh BS - có thể gây tử vong.
Khi mổ thì phòng mổ mở cửa sổ và bụi bậm tha hồ bay vào phòng chẳng có phương thức khử trùng gì cả. Sau khi ca mổ xong thì nhà thương họ bôi đầy mật ong lên vết mổ nói là để sát trùng vì không có thuốc. Vậy mà anh vẫn sống ngon lành.
Đợt thả lớn thứ nhì là sau Tết vào ngày 20 tháng Hai với 38 người trong đó có PKNiệm, TQ Lựu, Tấn "bầu", HĐ Sung hay "Sung Bụi", đại tá PV Phô, LM Sơn, LT Lạt, BQ Nghĩa (cũng là bạn cờ tướng của tôi đã từng đấu với nhau bất phân thắng bại trong mấy năm ở trại này).
Số tám chục người ra khỏi trại vào hai đợt đầu năm một chín chín hai này là những người tù đã bước sang năm thứ mười bẩy.
Vào cuối tháng Hai sau hai đợt thả ấy thì tổng số những người tù trong trại giam Z-30D còn lại đúng hai mươi người, trong đó có tôi.
Danh sách hai mươi người cuối cùng còn sót lại bao gồm bốn ông tướng là Lê Minh Đảo, Lê Văn Thân, Đỗ Kế Giai và Trần Bá Di, mười lăm anh em nữa là hai anh Bửu Uy và trung úy Thắng trong Phủ Đặc ủy; ba cảnh sát là hai trung tá NH Hải, TV Xoàn, thiếu tá PT Ngưu; người về từ Việt Nam Thương Tín Hoàng Hiểu; thiếu úy PRU trinh sát tỉnh Hòa "điếc"; anh Miên "hồi chánh viên"; ANQĐ là đại tá Sảo, Hãn, trung tá Hiếu, Kiên, thiếu tá Mẫn; lực lượng đặc biệt là thiếu tá LH Minh, nhà văn Thảo Trường TD Hinh và tôi thuộc tòa đại sứ HK. 
Hai mươi người cuối này được "biên chế" vào hết đội 23 còn đội 20 trước kia được "giải thể".

Từ đó thì tôi đi lao động chung với các vị tướng và đại tá đàn anh trong lúc sinh hoạt của đội 23 hoàn toàn khác hẳn vì ra lao động chỉ còn lấy lệ mà thôi. Chúng tôi đi ra ngoài để tăng gia về rau xanh, trồng bí mướp, khổ qua cho bữa ăn có thêm dinh dưỡng chứ không còn phải lao động nữa.
Có nhiều anh thì đi câu cá hay nấu nướng, viết thư cho gia đình. Tóm lại là chế độ cưỡng bách lao động từ mười mấy năm qua dành cho chúng tôi nay đã cáo chung và hầu như họ thả lỏng cho những người còn sót lại của đội 23 này được thoải mái như thể chỉ còn sống trong trại để chờ ngày về mà thôi.
Thời gian này quả thật so với quãng đời lưu đầy ngày trước thì khác nhau thật xa, tôi không còn cảm thấy không khí tù tội chung quanh mình, không còn cảm thấy những cảm giác nghẹt thở của trại giam, tuy nhiên tôi không khỏi băn khoăn vì chúng tôi còn lại quá ít, hai mươi người sống bên cạnh hàng ngàn tù hình sự đủ loại tội trạng. 
Hàng rào kẽm gai được đẩy lùi thêm vào trong và khu vực của chúng tôi thu hẹp lại vào một góc nhỏ gồm căn nhà dành cho bốn ông tướng và mười mấy anh em chúng tôi sống trong nhà kho sửa laị thành phòng ngủ; và lần đầu tiên trong cuộc đời tù tội, chúng tôi mỗi người có một chiếc giường cá nhân đàng hoàng giống như bốn đàn anh trên căn nhà kia.
Nghĩ lại tôi mới thấy các giấc chiêm bao khi xưa còn lưu đầy ngoài Bắc thật linh ứng. Như giấc mộng chiêm bao của thầy tôi ngoài Bắc khi còn ở trại Nam Hà, thầy đã thấy tôi là một trong những con cá cuối cùng còn quẫy đuôi nằm thoi thóp trên lòng sông mà nước đã trơ cạn đến đáy.
Và hệt như giấc mộng, cánh cửa tù đã đóng lại sau lưng chúng tôi hai mươi người tù cuối cùng vào cuối tháng Tư và đầu tháng Năm năm một chín chín hai. Như giấc mộng rất linh hiển tôi đã nằm mơ khi mới ra Bắc - thấy một vị Thánh Mẫu hiền hậu và uy nghiêm ngồi trên ngai và Ngài đã phán cho tôi ngay từ lúc đầu rằng: "Cộng Sản nó không bao giờ muốn thả anh đâu, nhưng rồi cuối cùng họ cũng phải thả".
Điều mà Ngài phán đã ứng nghiệm với những người tù cuối cùng - dù đã phải trải qua bao gian truân, cay đắng và tủi nhục suốt mười bẩy năm trời dài đằng đẵng đó nhưng họ vẫn luôn luôn nuôi dưỡng một niềm hy vọng hòa lẫn niềm vui tự hào rằng mình đã sống sót và có mặt trong ngày trở về.
(Còn Nữa)
Phạm G. Đại

Monday, July 12, 2010

NGƯỜI TÙ TRẠI PHONG QUANG


(Tưởng niệm Anh Hùng Biệt Kích Mai Văn Tuấn)


Ngày 14 tháng 10, năm 1970, Lê Văn Ngưng, toán trưởng toán Biệt Kích Hadley, bị hình phạt nặng nhất theo quy luật của trại tù Phong Quang. Anh bị cùm cả tay chân rồi bị tống vào phòng giam kỹ luật (xà lim). Anh Ngưng đã chờ dịp này từ bao lâu nay. Bây giờ, có thể anh sẽ tìm hiểu được chuyện gì đã xảy ra cho anh Biệt Kích Mai Văn Tuấn.
Trong căn phòng giam nhỏ và dơ bẩn này, Ngưng đọc thấy danh sách của những người đã từng bị giam giữ ở đây. Hàng chử viết bằng máu trên tường đập vào mắt anh: "Mai Văn Tuấn - ngày 2 tháng Tám 1970". Đây là di bút cuối cùng của anh Tuấn, người tù Biệt Kích khổ hình đã chết trong phòng giam kinh khiếp này.
Anh Ngưng bị nhốt ba mươi ngày với cả hai tay bị còng, hai chân cùm bắt tréo lại, xiết chặc không cựa quậy được. Đây là hình phạt thông thường giành cho tất cả mọi tù nhân vi phạm kỹ luật của trại tù Phong Quang.
Sau ba mươi ngày, Thượng Sĩ Thông mở cửa phòng giam, tháo còng và cùm chân, rồi ra lệnh cho Ngưng đi ra khỏi phòng. Sau đó Thông bắt anh Ngưng phải nhận tội anh đã vi phạm để đến nỗi phải bị giam cực hình này. Ngưng không chịu nhận tội và nói anh đã không làm gì sai quấy. Thượng Sĩ Thông nỗi cáu lên, la hét lớn tiếng và ra lệnh cai tù giam anh Ngưng trở lại vào phòng giam địa ngục trần gian đó thêm mười lăm ngày nữa.
Lê Văn Ngưng đã không bị chết trong xà lim này, nhưng anh Mai Văn Tuấn đã kém phần may mắn.
Ở trong Nam, Tuấn là một thanh niên trẻ, đã tình nguyện vào làm Dân Sự Chiến Đấu cho trại Huấn Luyện Biệt Kích ở Long Thành. Sau một thời gian ngắn, năm 1967, anh tình nguyện xung vào lực lượng Biệt Kích nhảy toán ra Bắc. Anh được gia nhập vào các toán nhảy ngắn hạn ở miền bắc vĩ tuyến 17, vùng Mụ Gia và Đồng Hới, với nhiệm vụ thu thập tin tức tình báo chiến lược liên qua đến việc cộng sãn bắc Việt chuyển quân vào Nam dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh qua biên giới Lào. Sau rất nhiều chuyến công tác nhảy Bắc, anh đã được đề bạt lên làm trưởng toán Biệt Kích STRATA. Năm 1968, Mai Văn Tuấn sa cơ vào tay giặc.
Thoạt đầu, Tuấn và toán của anh bị giam ở trại tù Thanh Trì vùng ngoại ô Hà Nội. Ở đó, các người cai tù thường nói với nhau là Tuấn không được bình thường, có vẻ mát dây nặng. Chúng không bao giờ biết chắc được là Tuấn điên thật hay giả. Dù sao đi nữa, với tài diễn xuất giả khùng giả điên, Tuấn đã tha hồ chửi bới cộng sản và chọc cho các cai tù ở Thanh Trì tức giận lộn ruột, nhưng chúng không đánh đập gì anh nhiều vì trong thâm tâm, chúng tin là Tuấn điên khùng thật.
Vào năm 1970, cả toán của Tuấn bị đưa qua nhà tù Phong Quang. Có thể vì chức vụ "toán trưởng" hoặc vì những trận "quậy" tưng bừng ở trại tù Thanh Trì, Tuấn bị tách ra và giam riêng ngay khi mới đến, hoàn toàn cô lập và bị cấm liên lạc với các tù nhân khác. Anh bị bỏ vào xà lim biệt giam. Không như những tù nhân biệt giam khác, Tuấn bị cùm cả hai chân, chân này cùm xích lên chân kia thật chặc, đây là cách cùm ác nghiệt nhất vì máu không thể lưu thông xuống cả hai chân đồng đều, đồng thời, vì các bắp thịt không được co giãn nên sẽ dễ đưa đến tình trạng tê liệt nếu bị cùm quá lâu.
Tù nhân tử hình chỉ có một việc làm duy nhất là đếm từng ngày một còn lại trên cõi đời của họ.
Sau hai tháng bị giam trong xà lim, Tuấn bắt đầu tuyệt thực để phản đối sự cư xử khắc nghiệt vô cớ của trại tù Phong Quang. Sau vài hôm, cai tù bắt đầu theo dõi và vào xà lim kiểm soát Tuấn mỗi ngày. Họ khuyên bảo Tuấn nên ăn để sống nhưng anh nhất quyết tuyệt thực cho đến khi nào được thả ra khỏi xà lim và được giam chung với các anh em Biệt Kích. Sau một tuần lể, Đại Úy Thích trưởng trại và cán bộ chính trị trại tù Phong Quang đến xà lim đích thân khuyên bảo Tuấn nên ngưng tuyệt thực. Một lần nữa, Tuấn từ chối. Đại Úy Thích ra lệnh cho nhà bếp nấu cháo gà đem đến cho Tuấn. Ông tự tay đưa bát cháo cho anh ăn. Tuấn nhận lấy bát cháo gà, chần chừ một tí rồi bất ngờ anh vung bát cháo gà nóng hổi vào mặt tên trưởng trại. Tức ứa gan, Thích đánh đập Tuấn túi bụi và sai cai tù "tẩm quất" thêm cho Tuấn một trận nhừ tử.
Hai ngày sau, tên cai tù vào xà lim coi Tuấn còn sống hay không. Hắn thấy Tuấn trần truồng nằm trên sàn đất trong những bải xú uế của chính mình. Hắn hỏi tại sao Tuấn làm như vậy. Tuấn trả lời:
"Manh áo này không phải của chúng tôi, áo này là sản phẩm của xã hội chủ nghĩa, không phải của tôi, tôi không mặc".
Đêm đó, Tuấn lặng lẽ lìa đời một mình trong xà lim lạnh lẽo. Ngày anh chết, mồng Hai tháng Tám năm 1970 anh đã viết lại bằng chính máu của anh.
Qua ngày sau, người cai tù thường trực tên Đại đi vào xà lim xem tình trạng của Tuấn. Hắn thấy Tuấn đã chết từ lâu, cơ thể cứng ngắt và lạnh giá, hai đầu gối tréo nhau chĩa lên trời. Đại phải đi lấy rượu xoa vào hai đầu gối của Tuấn để rồi dần dần mới kéo thẳng hai chân anh xuôi ra được để tháo cùm chân ra rồi đem xác Tuấn đi chôn.
Những bạn tù của Tuấn kể lại, oan hồn của Tuấn thường hiện về, vất vưỡng gần cái xà lim ác nghiệt này. Chỉ ba ngày sau khi Tuấn chết, nhiều người thấy một bóng đen thấp thoáng bên ngoài khung cửa sắt phòng giam của họ. Khi các bạn tù dùng đèn dầu chiếu ra khung cửa, họ thấy một bóng đen đứng yên lặng trông rất buồn thảm, dáng dấp trông như anh Tuấn.
Cứ khoảng mười một giờ đêm, mọi người bạn tù ai cũng thấy oan hồn của Tuấn. Lần nào Tuấn cũng chỉ đứng yên lặng nhìn vào phòng giam chung. Sau một tuần lễ, một người bạn gọi tên của Tuấn, xin Tuấn đừng về đứng ngoài sân nữa và nói với Tuấn là họ không có liên can gì đến chuyện Tuấn chết, chỉ xin Tuấn hiểu cho và việc Tuấn về chỉ làm cho các bạn tù thêm buồn. Sau đêm đó, bóng đen trong đêm tối không bao giờ trở về đứng ngoài phòng giam chung nữa.
Nguyện cầu hương hồn của người trưởng toán Biệt Kích Mai Văn Tuấn siêu thoát và xin anh linh anh hãy trở về phù hộ cho đồng bào và quê hương sớm thoát khỏi ác nghiệt gông cùm của bạo quyền cộng sản việt nam.


Ngô Xuân Hùng
(trích dịch lại từ sách "Secret Army, Secret War" của ông Sedgwick Tourison) phỏng vấn các cựu Biệt Kích bị giam ở trại tù Thanh Phong, trang 260-261)

Thursday, July 8, 2010

***Chuyện Tình Khoai Lang***




Chuyện tình này có thật, rất là cảm động, đã được nhiều anh em biết tới. Theo đúng như những kết luận về chuyện tình thời cổ tích, hai vai chính tới nay vẫn còn sống, vẫn thương yêu nhau, gia đình thật là đầm ấm.
Chuyện tình yêu này thật là đẹp, thật là đáng ghi nhớ, hay hơn tất cả những chuyện tình yêu trên thế giới. Love Story của Mỹ cũng thua xa! Một câu chuyện tình yêu kéo dài cả ba năm trời, trong đó hai vai chính, một nam một nữ không hề quen biết nhau, không hề tiếp xúc với nhau, nhưng kết cục lại lấy được nhau thật là ngọt ngào. Câu chuyện tình yêu này đã được đặt tên là... Chuyện Tình Khoai Lang, theo lời kể của một chịến hữu Nhẩy Dù của tôi, như sau:
***
Ngày đó, vào khoảng năm 1977, tôi đang bị bọn VC bắt đi tù vì tội có ông Tổng Thống đầu hàng. Cả bọn tôi, đa số là các Sĩ Quan trẻ (cấp bậc từ Thiếu Úy tới Đại Úy) được tập trung ở trại Suối Máu, sau đổi qua Trảng Bom (Biên Hòa). Bọn VC độc ác bắt chúng tôi làm việc cật lực nhưng không cho ăn uống tử tế, thuốc men hoàn toàn không có . Ai sống được thì sống, ai về chầu ông bà ông vải thì cứ việc đi. Phương cách giết người này thật là độc ác, giết nguời mà không cần gươm súng. Mỗi ngày đi lao động bên ngoài, anh em cố gắng kiếm được thêm cái gì thì ráng mà kiếm để sống cho qua ngày. Có người lượm được cái trứng chim, bắt được con thằn lằn, rắn mối...cũng đã cho rằng mình có số sung sướng lắm rồi. Dân làng thì ở ngoài xa, thỉnh thoảng mới gặp một vài người. Bọn VC quái ác không cho dân tiếp xúc với anh em chúng tôi và cũng cấm tuyệt anh em chúng tôi không được lân la tới khu dân chúng. Đói, đói lắm, đói thê thảm, đói lả người ra! Nhưng anh em còn trẻ, sức chịu đựng cao, tinh thần càng cao hơn, nên ráng sống đợi một ngày mai tươi sáng.
Bọn VC khoe với chúng tôi: " Đảng ta đã . . . Đại Thắng Lợi"
Thì chúng tôi lại vui mừng nhìn nhau, nói trong ý nghĩ: "Anh em ta . . . Đợi Thắng Lại!"
Ruộng mía, khoai lang, khoai mì của đồng bào ở chung quanh rất nhiều, nhưng chúng tôi không đụng tới, vì đó là của dân, mồ hôi nước mắt của họ. Họ cũng đói như chúng tôi vậy, đâu thể nào lấy của dân được. Ngày xưa, chúng tôi bảo vệ họ, ngày nay không làm gì được nữa nhưng không vì đói mà mất tư cách. Đồng bào biết chúng tôi đang bị đầy đọa, họ cũng thương cảm lắm, họ cũng đã tìm đủ mọi cách mà giúp đỡ chúng tôi. Bọn VC cũng biết như vậy, cho nên mỗi lần phải đưa chúng tôi di chuyển ngang khu dân cư, bọn chúng đi kè kè sát bên, không cho ai tiếp xúc với ai. Muốn mua thêm ít đường, ít muối cũng khó lòng mà làm được!

Thế nhưng trời cao còn có mắt mà, không sao! Miễn được thấy dân là lòng người lính thấy ấm lại rồi! Buổi sáng hôm đó, chúng tôi đang trên đường đi lao động. Từ xa, chúng tôi đã thấy khu dân cư ở đằng trước, và thấy bóng dáng những trẻ em, những cô gái đang tung lúa, thẩy khoai lang ra trước nhà để phơi. Khi tới gần khoảng chừng chục thước, chúng tôi thấy một bóng dáng phụ nữ cầm thúng thẩy khoai lang ra ngoài đường đi, chỗ chúng tôi đang bước thấp bước cao. Chúng tôi tuyệt đối không đụng tới tài sản của dân, dù là mấy củ khoai lang nhỏ bé, nên vẫn cứ thế mà bước đều. Mấy hôm sau, khi đi ngang qua xóm nhà này, chúng tôi lại thấy bóng dáng người phụ nữ này. Cô cũng dáng điệu như cũ, cầm thúng khoai lang thẩy ra đường đi. Lần này cô nói bâng quơ:
- Má à, mấy đám khoai lang hư này, mình đâu có bán cho ai được! Thôi, dục bỏ, nha Má!
Cô vừa nói vừa thẩy khoai lang ra chỗ chúng tôi.
Cô đứng ở xa nói tới, chúng tôi cũng không đi gần nên chỉ nghe cô nói như vậy thôi. Nói là cô gái thì cũng là nói vậy thôi, chứ không thấy rõ hình dáng, nói chi tới mặt mày.
Mấy hôm sau nữa, chúng tôi lại có dịp đi lao động ngang qua khu dân cư này. Chúng tôi lại thấy cô gái hôm trước. Cô vẫn đứng xa xa, nhưng lần này cô cố tình cầm khoai lang thẩy vào chúng tôi rồi bỏ đi, dáng vẻ rất là bình thường.

Tối về khu trại, chúng tôi bàn tán về cô gái, về những củ khoai lang mà cô thẩy ra ngoài. Chúng tôi cùng đồng ý là thái độ của cô rất lạ: Không có ai phơi khoai lang ở chỗ đường đi đó, mà cũng không có ai dục khoai lang trên đường đi như vậy cả.
Một người bạn - tên Phúc - đã nói với tôi:
- Tao nghĩ rằng cô gái này muốn cho mình những củ khoai lang đó. Chứ nếu cô muốn dục đi, thì thiếu gì chỗ dục. Hơn nữa, khoai lang dù là hư, không cho người ăn được thì để cho heo ăn, dễ gì mà dục bỏ!

Lần sau nữa, khi đi ngang khu nhà dân đó, chúng tôi lại thấy cô. Lần này chúng tôi không thấy cô thẩy khoai lang ra nữa, mà đứng yên ở phía xa xa chỉ trỏ chỗ này, chỗ kia, ý như muốn chỉ cho chúng tôi những củ khoai lang mà cô đã thẩy ra trước đó.
Tối về, chúng tôi lại có dịp bàn tán. Phúc nói với tôi:
- Tao có nhìn thấy mấy củ khoai lang ngay trên đường mình đi. Tao thấy khoai lang kỳ này cũ rồi, không tươi như bữa trước nữa. Tao nghĩ rằng, cô thẩy ra cho tụi mình lượm, nhưng không ai lấy, nên cô lại thâu lại để dành, bữa nay thẩy ra nữa. Chắc chắn là cô cho tụi mình đó, tụi mày đồng ý không?
Tất cả cùng có ý nghĩ đó! Chắc là cô còn có lòng thương những người lính sa cơ đói khổ, mà tặng những củ khoai lang ăn lót lòng. Củ khoai lang nhỏ nhoi không đáng là bao, nhưng tấm lòng của cô thật đáng quý! Chẳng có ai ở không mà chờ anh em chúng tôi đi gần tới mới thẩy khoai lang ra. Cũng chẳng có ai có nhiều khoai lang để mà thẩy chơi như vậy. Chắc chắn là khi chúng tôi đi khỏi, cô lại thâu lại những củ khoai đó mà để dành thẩy lại cho chúng tôi vào ngày hôm sau. Anh em chúng tôi cùng đồng ý là kỳ tới, nếu có đi ngang khu nhà dân, nếu cô còn có lòng hảo tâm mà thẩy khoai lang ra, chúng tôi sẽ chia nhau lượm.
Dịp may đã tới, chúng tôi lại có dịp đi ngang khu nhà dân cũ, và lại thấy bóng dáng cô từ xa. Cô lại thẩy khoai lang ra rồi bỏ đi. Chúng tôi đã bàn với nhau trước rồi, nên chia ra làm nhiều toán nhỏ: Toán đi trước bao chung quanh đám quản giáo để chúng khỏi nhìn thấy phía sau, toán thì đi chậm chậm lượm thật lẹ những củ khoai lang bỏ vào giỏ xách thật nhanh. Lính mà! Chúng tôi thanh toán chiến trường khoai lang lẹ lắm, không thua gì những lúc thanh toán bọn quỷ đỏ trên chiến trường trước đây.
Buổi trưa hôm đó, chúng tôi lại chia ra nhiều toán để dắt bọn quản giáo đi ra xa, trên đầu gió, để đám còn lại lo nướng khoai . Đói lòng ăn được củ khoai lang. Ôi, sung sướng nào hơn!
Đám này ăn xong thì lại ra canh bọn VC để đám kia trở lại ăn những củ khoai lang tình nghĩa đó. Lần sau đi ngang khu nhà dân, đến phiên Phúc lo lượm những củ khoai lang của cô gái hảo tâm. Buổi trưa, Phúc nói nhỏ với tôi:

- Đúng như tao dự đoán, mày ạ! Kỳ này cô ta cho mình toàn là khoai mới, bự và ngon hơn khoai bữa trước nhiều lắm! Chắc cô đã núp đâu đó, thấy mình đã lượm hết khoai kỳ trước nên mới đưa khoai lang mới ra đó!
Nhờ những củ khoai lang đó mà anh em chúng tôi có thêm sức khỏe. Nhờ ở cảm tình mà người dân đã dành cho chúng tôi qua củ khoai lang mà chúng tôi thêm được sức mạnh để chịu đựng cực khổ, chờ đợi ngày mai trời lại sáng. Chúng tôi ăn những củ khoai lang đó của cô gái tốt bụng, nhưng chỉ nhìn thấy dáng của cô từ phía xa xa mà thôi, chứ chưa bao giờ được nhìn thấy mặt cô cả. Cũng chỉ duy nhất có một lần được nghe giọng nói của cô mà thôi.
Thời gian cứ thế trôi qua, chúng tôi vẫn sống, vẫn hiên ngang với đời.
Rồi ngày mai đã tới, ngày tôi và Phúc được bọn VC trả về nguyên quán. Chúng nói là chúng tôi đã... học tập tốt. Nhưng đối với chúng tôi, với riêng tôi và Phúc, chúng tôi vẫn vậy. Muôn đời chúng tôi vẫn là người lính VNCH và càng căm thù bọn Việt Cộng hơn bao giờ hết. Tôi được gia đình lo liệu sẵn, một thời gian ngắn sau khi về lại nhà, tôi đã may mắn vượt biên trót lọt và qua định cư ở Melbourne xứ Úc Đại Lợi.
Tôi cũng có nghe bạn bè nói, Phúc cũng đã vượt biên và hiện ở Sydney, cùng xứ Úc với tôi.
Một ngày đẹp trời vào năm 1990, vợ chồng tôi có dịp đi Sydney và đã ghé thăm Phúc.
Bạn bè ngày xưa gập nhau mừng mừng tủi tủi, nói chuyện huyên thuyên - Chuyện xưa còn đó, nhưng bạn bè nay đâu? Thằng nào còn sống? Thằng nào chết trong trại tù? Thằng nào vượt trại? Thằng nào vượt biên? Đi đâu?
Cuối cùng mới tới chuyện đời sống hiện tại.
- Mày lấy vợ hồi nào? Lấy từ hồi ở VN hay qua đây mới lấy? Bao nhiêu đứa con rồi? Đứa lớn bao nhiêu? Đứa nhỏ mấy tuổi. Chúng tôi nói như chưa bao giờ được nói.
Phúc kể, đã lấy vợ từ hồi ở VN, hai vợ chồng cùng vượt biên qua đây. Vợ của Phúc chỉ cười cười khi nghe chồng giới thiệu là tôi ở cùng trại tù với anh từ năm 1977.
Một lúc sau, vợ Phúc bưng ra một đĩa mà Phúc nói rằng rất đặc biệt: Khoai lang Dương Ngọc!
- Ăn đi mày, ăn để nhớ lại cái thời bị tù đầy, bị bọn VC vo tròn bóp méo!

Tôi sáng mắt lên, vồ lấy củ khoai lang, ăn không kịp bóc. Tại sao lại phải bóc vỏ? Vỏ khoai cũng là khoai vậy! Tại sao lại vứt bỏ đi?
Bao nhiêu kỷ niệm xưa quay trở lại. Tôi cũng đã kể chuyện khoai lang cho vợ tôi nghe nên tất cả đều cùng nhau góp lại chuyện xưa. Tôi vừa ăn vừa ngậm ngùi:
- Không biết cô gái đã cho mình những củ khoai lang đó, bây giờ ra sao? Có ai biết cô đó là ai không? Cô ta còn ở đó hay đã trôi nổi đi phương trời biền biệt nào rồi?
Phúc trầm ngâm một lúc rồi trả lời tôi:
- Cô gái cứu sống mình bằng những củ khoai lang... đang ở trước mặt mày đó! Tao cưới cổ rồi!
Thật là không ngờ! Vợ chồng tôi ngạc nhiên tới há hốc miệng, rớt cả củ khoai lang ra ngoài:
- Mày... mày nói cái gì? Cô này đây... vợ mày đây... là... là cô gái cho tụi mình khoai lang ở Trảng Bom? Mày... nói chơi hay... nói dỡn vậy? Thiệt không? Làm sao mà mày kiếm ra cổ ? Mà... phải thiệt là cổ không? Làm sao mày biết là cổ mà dám nói là cổ ? Dám lấy cổ?
Vợ Phúc (Dung) mỉm cười giải thích cho chúng tôi:
- Em đâu có gueng, đâu có biết ảnh là ai đâu! Tự dưng ảnh tới kiếm em rồi... hỏi cứ (cưới) em đó chớ!
Phúc giải thích rõ ràng hơn:
- Khi còn ở trong trại tù, mình đã nói chuyện với nhau thật nhiều về cô gái đó, tao thầm cám ơn cô đã còn nghĩ đến những người lính VNCH đang mắc nạn. Tao đã nghĩ trong đầu rằng, nếu có dịp trở về, thế nào cũng đi tìm cô gái đó mà cảm ơn. Nếu cô ta còn độc thân, tao sẽ cưới cô ta làm vợ. Mặc dù chỉ với một hành động nhỏ nhoi tặng những củ khoai lang cho chúng ta, nhưng cô đã chứng minh được rằng, cô là người chống lại bọn VC, cô là người đã còn nhớ đến người lính VNCH xưa. "Miếng khi đói bằng gói khi no" mà! Mình đang sa cơ mà còn có người dám nghĩ tới mình, thì làm sao mà không cảm động cho được? Đến khi được thả về, tao trở ra Phan Thiết ở với cha mẹ anh em một tuần, thì nói với ba má là tao kiếm đường làm ăn. Tao quay trở lại Biên Hòa, đi vào khu Trảng Bom, nói với Tổ Trưởng vùng đó là tao ở Biên Hòa, muốn về làm rẫy, mua đất trồng khoai lang. Ông này dẫn tao đi giới thiệu với những gia đình đang trồng khoai lang, có dư đất muốn bán. Nhà nào tao cũng vào làm quen để hỏi mua đất, hỏi kỹ thuật trồng khoai, nhưng mục đích chính là kiếm cho ra cô gái đó. Tao cũng như mày, như những anh em trong trại, đâu có ai biết mặt mũi cô ra làm sao? Ngay cả dáng người cũng không nhìn được, nên khó kiếm hết sức. Nhưng tao còn nhớ được giọng nói của cô ta khi nói: "Má à, khoai lang của mình hư hết rồi, không bán được đâu, dục đi nha Má!" Tao nhớ có nhiêu đó thôi. Rồi duyên số cũng giúp cho tao kiếm ra bả. Buổi chiều hôm đó, khi tao đã hết hy vọng kiểm cổ rồi, đang trên đường đi tới nhà Tổ Trưởng chào từ giã. Chợt tao đi ngang qua một căn nhà ở cuối xóm, thấy một cô gái đang gom khoai lang bỏ vô thúng. Tao ngừng lại hỏi bâng quơ:
Cô lựa khoai lang đem bán hả?
- Cô này không quay lại, vừa tiếp tục lựa khoai, vừa trả lời:
- Tui lựa khoai lang dư đặng mai đem thẩy cho mấy người lính "học tập cải tạo".

Tao thấy coi bộ trúng mối rồi, bèn hỏi tới:
- Khoai lang trồng cực khổ mới có. Bộ cô có bà con đang học tập trong đó hay sao mà lại cho họ khoai lang?
- Tui đâu có gueng ai ở trỏng đâu! Bị tui thấy họ tội nghiệp thì tui giúp đở chúc ít dzậy mà! Hồi xưa, mấy người này đi lính để giữ cho làng xóm được yên, khỏi bị bọn VC phá đám giết hại người ta. Nay những người này bị bắt ở tù, mình phải nhớ ơn họ, phải giúp họ chớ! Hổng giúp được nhiều thì có mấy củ khoai lang cũng giúp họ chút đỉnh dzậy mà!
Mới nghe bả nói là tao nhớ lại liền. Đúng y là giọng nói "Má à, đám khoai lang này hư rồi . . ." mà tao nhớ không bao giờ quên. Tao lại còn kỹ càng hỏi cho ra lẽ tại sao bả lại giúp mấy đám tù cải tạo như mình? Nghe bả trả lời ngon lành như vậy là tao chịu quá đi, nhất định giá nào cũng phải làm quen, nếu được, sẽ cưới bả làm vợ. Lính mà! Dễ lắm! Giản dị lắm: "Hễ ai thương lính là lính thương lại liền".
Tao lại đang trong tình trạng độc thân... "Tròn năm năm lính, chưa hề có bạn tâm tình". Tới luôn! Tao đi tới đi lui nhiều lần làm quen với bả, với gia đình bả, nói là xin học làm rẫy. Khi biết rõ gia đình bả, và biết bả còn đang độc thân, chưa có đám nào, tao mới trở về Phan Thiết kể lại chuyện của bả cho ông bà già tao nghe và nói ý định muốn cưới cô gái quê, nhưng có lòng thương lính đó. Ba má tao đồng ý tao muốn lấy ai thì lấy, miễn là hai vợ chồng hạp với nhau là được rồi. Nhưng mà cô đó có lấy tao hay không thì lại là chuyện khác nữa. Tao trở lại nhà Dung phụ làm rẫy tiếp. Trong một bữa nghỉ trưa ở ngoài ruộng, chỉ có một mình tao với bả, tao mới nói rõ tao là ai? Đã cảm cái tấm lòng của bả và muốn được cưới bả làm vợ. Bả rất ngạc nhiên mà nói với tao, y như bả vừa mới nói với mày vậy: - Tui đâu có gueng biếc gì anh đâu? Tui cho mấy anh khoai lang là cho nguyên đám đó chớ đâu phải cho một mình anh! Bị tui nhớ hồi xưa mấy anh đã đi lính giữ làng xóm tụi tui, chứ tui đâu có biết anh ở trỏng đâu? Mà anh . . . cứ (cưới) tui làm chi?

Làm chi thì tao không biết làm chi, nhưng tao nói tao cảm tấm lòng của bả mà cưới bả, vậy thôi. Tao nói:
- Ít ra thì anh với em cũng còn giống nhau ở một điểm là "THƯƠNG LÍNH".

Nói ba điều bẩy chuyện một hồi, bả cũng không biết nói sao nữa, kêu tao muốn gì thì về nói chuyện với ba má cổ, chứ cổ... hổng biết. Vậy là chịu rồi! Tao mừng quá, cả hai đưa nhau về gập ông già bà già của bả, tao lại kể rõ lai lịch của tao ra và xin đưa cha mẹ tới xin cưới Dung. Hai ông bà ngạc nhiên hết sức, cuối cùng nói là:
- Nếu vậy đúng là duyên số rồi. Con Dung nhà tui nó đâu có gueng biếc gì ông đâu. Nó xin tui ít phai lang, nói là để cho mấy ông bị tù cải tạo, tội nghiệp mấy ổng quá. Ai dè có ông ở trỏng, ông thương nó, ông được dzìa rồi thì ráng lội bộ đi cùng khắp chốn kiếm cho ra nó đặng xin 'cứ' nó! Đó là do Ông Tơ Bà Nguyệt cột đó, chứ hổng có ai bầy ra được đâu!
Tụi tao định ngày, đưa cha mẹ tao tới làm đám hỏi, xong rồi mới mời ổng bả và Dung về nhà tao chơi. Tới Phan Thiết, thấy nhà cửa của ba má tao thì ổng bả và Dung hoảng hồn, vì nhà tao hồi đó cha mẹ cũng còn nhà cửa, cơ sở làm ăn khá lắm! Dung đã nghéo tao ra sân mà nói:
- Nhà anh giào như zậy, mà anh cứ tui là gái guê làm chi? Thôi, thả tui zìa Trảng Bom tui làm rẫy sướng hơn!
Tao phải nói khó với bả:
- Mấy thứ đó là của cha mẹ anh, chứ anh... "Trên Răng Dưới . . . Dế ", đâu có cái gì nữa đâu! Có cái mạng cùi cũng nhờ em cho mấy củ khoai lang mới còn sống tới ngày nay. Mà em đừng có lo, mình còn đủ chân đủ tay, mình tự làm mà nuôi thân, chịu không?"
- Anh nói dzậy thì tui chịu!
Chịu hay không chịu thì cũng trễ rồi! Lính đã nói là Lính làm:
- Em có ý kiến nhiêu đó là đủ rồi, mọi thứ còn lại để anh lo, đừng có lộn xộn gì hết nữa!
Rồi tụi tao làm đám cưới. Cưới xong, tao lo đường vượt biên. Ông bà già vợ thẩy một mớ khoai lang lên tàu, vậy là tụi tao dông. May mắn cho tụi tao, trời yên bể lặng. Sau bốn ngày lênh đênh trên biển, tàu tụi tao cặp được tới Bidong. Tao chọn đi Úc cho nó lẹ và an toàn. Khoảng hai tháng sau tụi tao tới Sydney, gởi điện tín cấp tốc về cho ông bà già tao hay. Hai ổng bả mừng quá, lập tức mướn xe chạy tới Trảng Bom cho ba má Dung hay. Ba Má Dung cũng mừng quá, xá trời xá đất cám ơn lia chia. Ba của Dung cười lớn:
- Dzậy là thằng rể tui khỏi sợ bị Diệc cộng bắt cải tạo nữa rồi ha!
Má của Dung hỏi thêm:
- Ở bển có đất cho tụi nó trồng khoai lang hông dzậy, anh chị sui?
Tụi tao ở bên đây thì cũng giống như tụi bay vậy, ra sức làm mà lo cho gia đình, con cái, lo cho cha mẹ bên Việt Nam. Tụi tao có hai con rồi. Bây giờ bả hết dám hỏi:
- Anh " cứ " tui làm chi, nữa rồi.
Tụi tao lo làm nuôi con ná thở, đâu còn thì giờ mà hỏi nữa! Hỏi nữa tao để ........ đẻ nữa!
Người lính VNCH 

Tuesday, July 6, 2010

Họp Mặt Cựu Tù Yên Bái, Phong Quang, Vinh Quang.

Phần Mộ Tù Cải tạo ở Phong Quang 
 
Garden Grove (Bình Sa)- - Sáng Thứ Bảy, 3 tháng 7 năm 2010, tại  nhà hàng Diamond Seafood Palace, một  ngày hội ngộ với nỗi mừng vui lẫn lộn  của những người cựu tù thuộc các trại tập trung của công sản ở Yên Bái, Phong Quang, Vĩnh Quang. Tất cả qui tụ về đây để cùng nhau ôn lại những kỷ để cùng nhau nhớ về những người bạn tù vĩnh viễn nằm xuống không nhìn thấy ánh sáng tự do, Những người vợ tù gặp nhau để nhớ lại những ngày tháng cơ cực, lao nhọc bên ngoài, tay bế tay bồng, vừa làm cha, làm mẹ, chạy gạo nuôi con, nuôi ba mẹ già yếu hai bên, nội, ngoại.
Đây chính là số phận của những cựu tù nhân chính trị các trại Long Giao, Yên Bái, Phong Quang, Vĩnh Quang A, B, Tân Lập, Z 30 D… và vợ con sau biến cố 1975, và cũng là số phận chung của vợ con và những người lính Việt Nam Cộng Hòa, những cựu tù chính trị các trại tù khác tại Việt Nam sau năm 1975.  Các con, cháu của cựu tù cũng được ba mẹ đưa đi cùng, nhiều bạn trẻ nhìn ngắm thật lâu bên những hình ảnh triển lãm ngay góc trang trọng trong nhà hàng. Ban tổ chức triển lãm vài hình ảnh các trại tù, những chứng tích những ngày tù đen tối của những tháng năm khắc nghiệt đầy hận thù của chính quyền CS đối với các anh. Người nghệ nhân bất đắc dĩ, cựu đại úy Lê Trị và nay quen thuộc với cộng đồng, trong vai trò nhiếp ảnh gia, đã đem đến góc triễn lãm, cây đàn violon do ông tự tay làm trong thời gian ở tù, và bức hình chụp cây violon của ông chụp, cùng những câu thơ do ông sáng tác.
Người nghệ nhân bất đắc dĩ này thuộc đơn vị tình báo 101, đã trải qua 13 năm các trại Yên Bái, Hoàng Liên Sơn…,
Ông tâm sự: "Thời gian trong tù, thấy anh em nghệ sĩ thiếu phương tiện âm nhạc. Nhiều người cầm khúc củi, tưởng tượng là cây đàn. Lấy thùng xăng làm trống. Rất tội nghiệp. Tôi là giáo sư Toán, Lý Hóa, chưa hề biết nghề mộc là gì, nhưng đi tù, tôi ghi danh học mộc. Tác phẩm đầu tiên là cây đàn guitare, vật liệu là gỗ trong trại tù, với dây thắng xe đạp quấn lại, nhưng âm thanh cũng tương đối giống, thế là anh em yêu cầu, khuyến khích. Tôi đã làm, dần dần được 100 cây đàn guitare và 15 cây đàn violon."
Cũng chỉ vì làm đàn tặng anh em tù mà ông đã bị nhốt 15 ngày trong nhà kỷ luật và bị đập 3 nhát búa vào người, để lại vết bầm tím trên cơ thể hàng tháng trời, đi đại tiện ra máu. Thế nhưng, ông vẫn lén lút làm đàn.
"Có những anh từ Pháp qua, từ khắp các tiểu bang trên đất Mỹ này về. Ban đầu ghi danh khoảng 150 người. Nhưng sau đóù nhiều anh em đọc thông báo nên họ đến đông hơn dự định."
Giáo sư Nguyễn Thanh Giàu, cựu tù trại Vĩnh Quang A, trại Nam Hà, chia sẻ:  "Ở ngoài, có thể chúng tôi khác tôn giáo với nhau, khác đảng phái chính trị. Nhưng trong trại, chúng tôi gắn bó với nhau, vì đều là tù nhân cộng sản. Gặp lại nhau, nhắc chúng tôi nhớ những ngày khốn khó, chia những muỗng muối, cơm sạn, sắn lát cùng nhau… rất đớn đau mà đầy nghĩa tình".
Bác sĩ Quân Y Phạm Đức Vượng, cựu tù phải trải qua 7 năm các trại Long Giao, Yên Bái, Thác Bà, Vĩnh Quang… thành viên trong ban tổ chức, đến từ San Jose, bồi hồi cho biết:
"Chúng tôi từ trong Nam bị đi tù ngoài Bắc, trong những điều kiện rất khắc nghiệt, rừng thiêng, nước độc. Với sức khỏe không nhiều, mà làm việc nặng nhọc. Bởi thế, một số anh em đã bỏ mạng nơi núi rừng Tây Bắc, tại Thác Bà là nhiều nhất. Trong chuyên môn của tôi, tôi giúp được một số anh em, nhưng phương tiện không có, đành nhìn những anh em bị kiết lỵ, suy dinh dưỡng, từ từ ra đi. Nhiều người trước khi nhắm mắt, họ chỉ muốn xin một cục kẹo, muỗng đường thôi, mà không có. Đó là những kỷ niệm đau buồn nhất. Chúng tôi cũng muốn cám ơn những người giúp chúng tôi tồn tại đến hôm nay, chính là những bà vợ của chúng tôi. Còn là cơ hội cho các bà được dịp gặp nhau…"
Tâm sự những người vợ tù "cải tạo"
Ca sĩ Lệ Hằng cho biết chồng trước của chị là thiếu tá Trịnh Quang Minh, sĩ quan điều hành huấn luyện tình báo, văn phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu. Đây là chức vụ CS rất ghét, họ đã đến tận nhà nói rằng, anh nợ máu, anh phải trả bằng máu. Anh đã bị bắt đi tù, từ 1975 đến 1985 mới được thả. Chị nghẹn ngào nhắc lại chuyến thăm chồng đầu tiên năm 1979:
"Lệ Hằng và con trai lúc đó được 3 tuổi, đi xe lửa, 3 ngày 3 đêm. Sau đó, từ Hà Nội đi vào Vĩnh Yên, Vĩnh Phú, Lệ Hằng đã bồng cháu, cõng cháu trên lưng. Vừa đi vừa lần chuỗi đọc kinh cầu nguyện, xin ơn trên phù hộ.
Lội bộ từ Vĩnh Phú từ 5 giờ chiều đến 6 giờ sáng, vào đến trại, lội qua con suối. Té lên té xuống, vùi dập trong suốt chuyến đi. 
Vào đến nơi, công an đưa anh ra, hay tay bị xiềng xích, mặc quần áo tù, chỉ được gặp có nửa tiếng đồng hồ. Chỉ có khóc không, đã hết nửa tiếng rồi.
"Tôi đã quỳ xuống, xin cán bộ cho thăm thêm, nhưng không được."
Chị đã bật khóc, ký ức đớn đau thưở xưa lại trở về, nghẹn ngào không nói nên lời. Lặng đi để nén nỗi xúc động, chị nói tiếp:
"Năm 1985, anh được thả, gia đình đã lo cho anh vượt biển sang đây đoàn tụ. Tôi có thêm 2 con với anh khi anh qua bên này. Đến năm 1990, anh mang bệnh ung thư phổi, đã qua đời sau 6 tháng phát bệnh."
"May mắn anh đã qua được bến bờ tự do, anh đã mất trên tay tôi, và tôi đã lo cho anh đến nơi đến chốn, đó là điều an ủi hạnh phúc. Chứ nếu chẳng may anh mất trong tù, mất xác, khi có được, chỉ là nắm xương khô. Đó là điều rất đau khổ. Đã có những chị bạn trong hoàn cảnh đó, rất thương tâm."
Sau hơn 2 giờ cùng nhau chụp hình, gặp gỡ từng nhóm bạn tù hàn huyên, thăm hỏi, nhìn nhận ra nhau. Giờ khai mạc buổi họp mặt được thực hiện với những nghi thức trang trọng, lần lượt 5 thành viên trong ban tổ chức, gồm anh Lưu Anh Dũng, Phạm Đức Vượng, Nguyễn Thanh Giàu, Nguyễn Tường Thược, Nguyễn Ngọc Tuấn chia sẻ nỗi niềm của mình trong ngày họp mặt, và đã cùng chia trách nhiệm với nhau, để có buổi họp mặt hôm nay.
Nhà báo Nguyên Huy (báo Người Việt) được ban tổ chức mời lên góp vài lời. Ông chia sẻ:  "Tôi cũng là cựu tù từ các trại Tân Lập, Vĩnh Phú… 13 năm. Tôi có một mong mỏi, sẽ tổ chức trong vòng 1 hoặc 2 năm nữa, buổi gặp mặt ngay tại thủ đô của người Việt tị nạn. Chúng ta có thể thuê những công viên ở lại qua 1 đêm, hai đêm, cùng nhau đốt lửa trại.
"Anh em khắp nơi trên thế giới về tổ chức những khu vực riêng, diễn lại những cảnh khốn khổ của mình trong trại, trải qua ngục tù như thế nào, và đưa con, cháu mình cùng tham gia, để các cháu nên biết, để người Hoa Kỳ biết. Sau đó, anh em chúng ta cùng làm bản lên tiếng tố cáo tội ác của cộng sản. Đây là ý nghĩa sơ khởi của tôi…."
Lời đề nghị của nhà báo Nguyên Huy đã nhận được những tràng pháo tay hưởng ứng của mọi người.
Buổi tiệc được bắt đầu, với chương trình văn nghệ qua tiếng hát của các chị vợ tù và các nghệ sĩ thân hữu giúp vui. Mọi người cùng thưởng thức  cùng hàn huyên tâm sự và hẹn gặp nhau cho năm tới với dự tính qui tụ đông đủ hơn.